Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2011

MỢ TÔI - 2

MỢ TÔI - NHỮNG NỖI ĐAU LẶN VÀO TRONG
Viết vào ngày Giỗ Mợ
Nỗi đau khôn nguôi cứ bám riết lấy phần đời còn lại của Mợ tôi có lẽ tính từ ngày ở nhà nhận được giấy báo tử của Quang, hy sinh tại mặt trận Quảng Trị. Quang là con trai áp chót, trên Huy và dưới anh Sơn. Quang sinh cùng năm với Tấn Lộc em trai tôi. Quang lúc mới sinh đã là một đứa trẻ yếu ớt, khó nuôi, vì vậy được Me thương lắm.

Mợ tôi càng thương Quang gấp bội khi Quang nhập ngũ, cũng bởi với đôi mắt cận thị nặng, lúc nào cũng đeo kính cận số to trông như hai cái đít chai, cả nhà không hiểu Quang ra trận rồi sẽ đánh đấm thế nào. Thời gian Quang tập trung huấn luyện đi B ở Thanh Hóa, Ba tôi đã hai lần đạp xe vào tận nơi thăm Quang. Có lẽ đó là lần cuối cùng Quang được gặp người thân cho đến khi hy sinh.

Sau này nhờ nhiều người tận tình giúp đỡ, gia đình đã tìm được hài cốt của Quang tại đúng căn hầm mà Quang hy sinh. Mộ của Quang được đặt trong Nghĩa trang Đường Chín. Năm nào gia đình cũng tổ chức một xe vào đó thăm Quang. 
Còn nhớ cái lần tôi đi NCS từ Kiev trở về, khi đến thăm Cậu Mợ rồi thắp hương trên bàn thờ Ông Bà để báo cáo kết quả học tập, tôi để ý thấy một cái bình bằng gốm sứ trông giống cái bát hương cỡ lớn, có nắp đậy kín gắn keo xi, bên cạnh có đặt một bát hương riêng. Hỏi thì Mợ nói đó là anh con đấy, anh mất sớm ở Chiến khu Bang-Rợn lúc mới mấy tháng tuổi. Tôi buột miệng nói "Phải anh Cooc không Me?". Với vẻ đầy ngạc nhiên Mợ tôi hỏi: "Sao con biết?". Tôi kể cho Mợ nghe là từ hồi còn bé, cứ mỗi lần kể tên các anh chị trong nhà thì Ba Mẹ tôi hay nhắc đến anh Cooc. Nói anh mất sớm, tội lắm, trên chiến khu thiếu thốn đủ điều, thuốc men cũng thiếu, và anh được chôn dưới gốc cây thị. Mợ nói, Cooc là địa danh vùng đó, cây thị bây giờ đã thành cổ thụ, cũng nhờ có cây thị mới tìm được nơi anh nằm, bao nhiêu năm rồi còn gì, Me cũng chỉ mang được nắm đất về thờ thôi. Sau này do nhiều người khuyên, Mợ tôi đưa anh lên chùa, cho nó lành, Mợ bảo thế.

Năm 1995 Cậu tôi ốm nặng rồi qua đời tại Bệnh viện Hữu nghị. Trước đó chị Hồng Anh đón chú Tài Thu về châm cứu cho Cậu, chú cho chạy điện châm mấy lần, lần nào cũng nói chuyện với Cậu tôi rất nhẹ nhàng, động viên rất khéo. Nhưng khi ra ngoài hành lang thì chú cho biết là đã quá muộn. Quả nhiên chỉ hai hôm sau là Cậu đi vào hôn mê, rồi hôn mê sâu cho đến lúc ra đi.

Khi đón Mợ vào Bệnh viện, chúng tôi để Me ngồi trên một chiếc ghế kê sát giường Ba nằm. Mợ cứ nhắc đi nhắc lại một câu "Sao thế này, sao lại đi sớm thế này...". Sau đó Mợ nói với chúng tôi: "Me muốn ngồi đây một mình với Ba". Tất cả lặng lẽ lui ra hành lang, chỉ còn tôi đứng lại sau lưng Me, và anh Minh thì đứng ở phía đầu giường Ba nằm. Anh cẩn thận hà hơi nóng vào lòng bàn tay rồi vuốt mấy lượt lên mắt Cậu tôi. Trước đó ít phút, mắt Cậu chỉ khép lại khi có bóng Mợ bước vào phòng. Me nói: "Hai đứa ra ngoài một lúc, khi nào Me gọi mới được vào". Nấn ná mấy giây rồi hai anh em cũng chịu rút ra ngoài đứng đợi. Tôi nhòm qua cửa kính, đầu tiên thấy Mợ ngồi im khá lâu, rồi sau đó cứ như đang tâm sự điều gì với Cậu vậy.
Từ khi đưa Cậu tôi lên Mai Dịch trở về, hàng ngày lúc nào cũng có người luôn bên cạnh Mợ. Dù thấy Mợ vẫn giữ được bình tĩnh, nhưng chúng tôi hiểu rằng để giữ được vẻ ngoài bình tĩnh như vậy, chắc Mợ không còn đủ sức để chặn nỗi đau bên trong đang cào xé cõi lòng.

(Còn nữa)

Thứ Năm, 24 tháng 3, 2011

DÒNG TÊN BẠN

Ngồi buồn tạm phác vần thơ
Ghi dòng tên bạn những giờ thủy chung
Bao năm sống dưới mái trường
Xa nhau xin bạn nhớ đừng quên ai

Ánh, Quyên, Hòe, Cúc, Xuân, Mai
Kháng, Ngọc, Lê, Ẩm, còn ai nữa nào
Cương, Long, Hậu, Định bên nhau
Văn, Hưng, Dõng, Phú trước sau trọn tình
Chài, Lâm, Hùng, Chiến, Hưng, Minh
Quý Liên, Vu, Dũng, Khanh, Tuynh, Ngụy, Thùy
Văn Liên, Bằng, Truật, Khánh, Khuê
Sang, Thành, Giang, Thủ, Cẩm kề bên Công

Bốn hai tên bạn nối dòng
Trước sau xin bạn chớ đừng quên ai
Chúc cho Cúc mọc bên Mai
Nghìn năm tình bạn không phai tấc lòng
Dù cho trăm nẻo trăm phương
Tình ta mãi mãi thủy chung vẹn toàn.
Ngày mai thống nhất giang san
Gặp nhau không thể nào quên bạn hiền

Chiều nay phượng đỏ đầu đình
Ghi dòng tên bạn đinh ninh tấc lòng
Ngày mai về lại quê hương
Mang dòng tên bạn nhớ thương mặn nồng.

27-05-1966
Lê Quang Cẩm

Chúng tôi là học sinh lớp 10B (Khóa 2 cấp 3 Lệ Thủy, 1963-1966), Chủ nhiệm là Thầy Thuần, dạy Văn.
Bài thơ trên là của Lê Quang Cẩm, cùng lớp 10B chép tặng  các bạn cùng lớp nhân buổi gặp mặt chia tay vào một ngày hè đỏ lửa năm 1966. Buổi chia tay đẫm nước mắt tại một nhà dân mà Thầy Thuần, chủ nhiệm lớp 10B của chúng tôi, đang trọ ở cùng cháu của Thầy là Nguyễn Quý Liên, bạn học cùng lớp tôi.
Trước đó, không biết theo sáng kiến của ai, các bạn nữ đã thêu tên thầy chủ nhiệm cùng họ tên 42 học sinh của lớp lên một lá cờ bằng vải đỏ tươi, xung quanh có viền đăng-ten rất đẹp. Trong buổi giao lưu các bạn nữ mang ra cho cả lớp xem, sau đó lưu lại làm kỷ niệm. Không biết bây giờ qua bao năm tháng, lá cờ ấy có còn không, và đang nằm ở đâu.

Trong bài thơ "lịch sử" DÒNG TÊN BẠN có nêu tên 42 bạn, hiện nay tôi chỉ biết được tin tức một số bạn sau đây:
- Đang ở Hà Nội: Nguyễn Thị Tú Quyên, Nguyễn Minh Kháng,                                 Đỗ Khắc Hưng,  Võ Như Dõng, Nguyễn Văn Truật,
                            Nguyễn Tấn Định, Nguyễn Anh Dũng, là 7 bạn có tên trong 
                             bài thơ nói trên.
                            Ngoài ra còn có Dương Viết Mỹ, Đỗ Văn Đồng,
- Ở Gia Lai: Trần Duy Hưng
- Ở Đà Nẵng: Võ Sang
- Ở Đồng Hới: Hoàng Thị Cẩm (Ẩm), Võ Kim Lê, Đặng Ngọc Long, Chiến,
                         Phan khắc Hậu
- Ở quê Lệ Thủy khá nhiều: Trần Đình Giang, Lê QuangCẩm, Vu, Chài,
                        Thùy, Hùng, Hoàng Đại Thành
- Ở Thành phố HCM: Hòe
- Ở Hà Tĩnh: Nguyễn Thanh Văn
.....
- Các bạn đã mất: Lâm Quang Ánh, Nguyễn Thị Bạch Cúc
Rất mong các bạn là học sinh lớp 10B thuở ấy và những ai biết được tin tức về những cựu học sinh Khóa 2 Cấp 3 Lệ Thủy, có tên trong bài thơ DÒNG TÊN BẠN, hãy lên tiếng và bổ sung.
Xin trân trọng cám ơn!
NTĐ

Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2011

MỢ TÔI

MỢ TÔI

Kính dâng Hương Hồn Mợ yêu quý
 
Trong tháng Ba âm lịch hàng năm có bốn cái Giỗ quan trọng tôi cần phải nhớ. Từ ngày Ba tôi đi xa về với Tổ tiên tôi phải học thuộc các ngày giỗ trong năm và tập cách tra Gia phả. Sáu chục tuổi đầu mới tập tành làm những công việc như vậy không phải là quá sớm! 
 
Trước tiên là Mùng Mười Giỗ Tổ, có lẽ con dân nước Việt ai cũng phải nhớ, chẳng riêng gì tôi. Trước Giỗ Tổ một ngày là ngày Giỗ Bà Nội. Lùi lại một tuần, mùng bốn là ngày Giỗ Dì Liên, chị của Mẹ tôi. Dì mất sớm để lại hai đứa con gái, đó là chị Xuân và chị Hạ. Từ bé cho đến lúc về già, hai chị lúc nào cũng gọi Mẹ tôi là Mẹ, và cư xử như là với mẹ đẻ vậy. Sau Giỗ Tổ hai ngày là Giỗ Mợ Miến, vợ Cậu Nho của tôi. Cậu Nho hơn Mẹ tôi ba tuổi. Sau Mẹ tôi, Mợ là người có ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình hình thành nhân cách của tôi.
 
Mợ bước vào đời tôi tự nhiên như một người mẹ. Cũng bởi từ những ngày đầu tiên được sống với gia đình Cậu Mợ, tôi đã gọi Mợ là Me như các anh chị trong nhà. Gọi Me và xưng con một cách tự nhiên như trời sinh ra thế, có lẽ một phần là nhờ lúc ở nhà trong quê, tôi cũng gọi mẹ tôi là Me rồi. Trong tất cả các trang nhật ký tôi ghi chép về Mợ, chỉ thấy gọi Me xưng con như ngoài đời vẫn vậy. Nhưng ở đây, trong bài viết này tôi sẽ viết là Mợ, để bạn đọc dễ theo dõi.
 
Mợ tôi có cách dạy con khác Mẹ tôi, dạy mà như không dạy, chiều chuộng hết mực nhưng rất nghiêm khắc. Không mắng mỏ nặng lời nhưng chỉ cần nhìn vào ánh mắt của Mợ là biết mình cần phải làm gì. Có lẽ Mợ tôi nắm chắc được một điều, đó là các con đều thông minh nhạy cảm và hiếu đễ, chúng biết phải làm gì để sửa chữa những sai lầm khuyết điểm, không làm cho bố mẹ phải phiền lòng.
 
Còn nhớ, tôi và Thạch Sơn anh tôi cùng tuổi, hai đứa được xếp một phòng xinh xắn ở gác hai. Mợ tôi có lịch phân công công việc cho hai đứa hẳn hoi, đứa nào lau nhà, đứa nào quét ban công, lúc nào tập thể dục, lúc nào tưới cây, thay nước bể cá, nhất nhất đều làm theo lịch. Hàng tuần đều có nhận xét, cho điểm. Đến cuối tháng tổng kết đứa nào nhiều điểm hơn thì sẽ được thưởng. Thường là Mợ cho tiền đi ăn quà, hai đứa đều được cho tiền, nhưng đứa nào nhiều điểm hơn thì được cho thêm. Những tháng đầu tôi và Sơn còn ganh đua nhau, nhưng về sau thấy đứa nào thắng rồi cũng thế, cùng chung tiền lúc đi ăn quà cả, nên đâm sao nhãng, và Mợ đã rất buồn. Biết vậy nên tôi và Sơn chăm chỉ hơn trước, thỉnh thoảng cũng có vài vụ hai đứa cộng tác để đối phó với các cuộc 'thanh tra' đột xuất của Me.
 
Nhớ nhất vẫn là cái vụ tôi tè dầm lúc ngủ, chuyện này có lẽ đến bây giờ vẫn là một bí mật lớn nhất trong đời, chưa ai biết ngoài Mợ tôi. Sáng đó tôi dậy thật sớm, vì là quần ướt mà vào mùa đông nên không tài nào ngủ được, tôi dậy và đứng thu lu ở cửa phòng tắm. Mợ nhìn thấy biết rõ sự tình liền lấy quần bắt tôi thay ngay, rồi nhanh chóng thay ga giường ngủ cho tôi. Mợ còn lấy một cái khăn tắm lót che phần ướt dưới đệm rồi giấu nhẹm tang vật. Được một phen hú vía! Nếu lộ chuyện, biết chắc là anh Sơn sẽ gán cho tôi một biệt danh nào đó, và sau đó chắc chắn sẽ đến tai bọn ở lớp. Lúc đó thì có mà chui xuống lỗ!
 
Lần nữa là lần tôi bị ném sưng đầu làm Mợ hết sức lo lắng. Số là tôi chơi xèng rồi thua thằng Thắng ở số nhà 44 đối diện bên kia đường, sau này lớn lên mới biết bố Thắng là ông Đỗ Tất Lợi rất nổi tiếng. Lần đó tôi thua sạch, xin lại mấy xèng nó không cho, tức quá tôi chộp túi xèng chạy bay ra đường. Chưa kịp chui vào nhà thì đã bị một "củ đậu bay" tương ngay vào sau đầu đau điếng. Quay nhìn lại đã thấy thằng Thắng đứng bên kia đường cười lêu lêu nhăn nhở. Nó thấy tôi xòe bàn tay đỏ lòm những máu thì hốt hoảng trốn biệt vào nhà. Anh Sơn nhanh trí chạy xuống bếp vốc một vốc muối đắp ngay vào chỗ sưng. Không ngờ chỗ sưng tăng trưởng nhanh đến vậy, có lẽ còn nhanh hơn là tăng giá bây giờ! Chỗ sưng lại còn nhức giật giật nhói lên cả đỉnh đầu, có nguy cơ phải nghỉ học, vậy nên quyết định phải khai thật với Mợ. Và Mợ tôi đã trổ tài lang vườn, mợ xin một nắm lá gì đó ở ban công nhà bác Lợi, nhai nhuyễn rồi đắp vào chỗ đau cho tôi. Thỉnh thoảng Mợ lại bắt tôi cúi thấp đầu xuống rồi thổi phù phù vào chỗ đau, hơi thở man mát âm ấm, dễ chịu vô cùng.
 
Trong bữa cơm, Cậu tôi hỏi "Định, đầu con sao vậy?". Mợ tôi nhìn Cậu đỡ lời: "Nó bị cái nhọt đầu đinh sưng tấy". Sơn nghe Me nói thế tròn mắt ngạc nhiên, bưng bát cơm vừa chan đầy nước vối chạy vội ra hành lang, cười khùng khục. Tôi và vội miếng cơm rồi cũng chạy theo ra, tức như bò đá!
Cái u lúc đầu sưng to bằng quả trứng gà, nhưng chỉ một tuần là khỏi. Có lẽ nhờ vào mấy cái lá cây nhà bác Lợi thì ít, mà phần lớn là nhờ vào độ ấm của hơi thở Mợ tôi thổi cho! Chắc chắn là như vậy rồi!
 
Mợ còn bày cho tôi và Sơn cách muối trứng vịt, muối khô và muối nước. Chỉ đường cho hai đứa ra Đầm Trấu phía ngoài đê xin tro bếp và đất phù sa. Mợ đâu biết rằng đường ra Đầm Trấu thì Sơn, Thắng và tôi đã thuộc như lòng bàn tay vì bọn tôi hay trốn nhà ra đó tắm trộm. Có lần vì ham tập bơi ở chỗ bè nứa, Sơn suýt chết đuối còn thằng Thắng từ đó rủ mãi không dám đi nữa. Mợ còn giao cho Sơn và tôi đến nhà người quen ở Phạm Đình Hồ bứng rồi khênh về cả một cây vú sữa cực đẹp, trồng ngay vào khoảnh sân nhỏ nằm giữa phòng ăn nhà trên và gian bếp phía dưới. Lúc ấy còn nhỏ tuổi nên hai đứa thấy công trình trồng cây này là quá vĩ đại, đặc biệt hồi đó cây vú sữa lại đang là biểu tượng của miền Nam ruột thịt.
 
Có một lần sau bữa trưa, sau khi ngó vào thấy hai ông con đã nằm im trên giường, Mợ khép cửa đi nghỉ. Chỉ loáng sau hai đứa đã có mặt ở ban công với mỗi đứa một súng cao su trong tay. Trời mưa nên không trèo tường đi chơi được. Chim vành khuyên và chim sâu cũng trốn đâu biệt tăm. Ngó tới ngó lui chỉ còn cây đu đủ đầy quả xanh của số nhà 53A, và khi thấy những viên đạn hình chữ U uốn bằng dây thép cắm phập vào quả đu đủ hai anh em khoái chí vô cùng. Bị kích thích bởi những đám mủ đu đủ trắng xóa đặc quánh lại bám chặt vào chùm quả, chúng tôi bẻ phấn trắng làm đạn và tiếp tục cuộc thi bắn đạn thật. Kết quả là hộp phấn viên hết veo. Cuộc chơi đành kết thúc khi giờ học bài buổi chiều đã điểm.
 
Cuộc bắn đạn thật ấy đã để lại hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Bà chủ nhà người Hoa bên số 53A đã mời Mợ tôi sang nói chuyện. Không biết người lớn nói gì với nhau nhưng khi về thấy Me rất buồn, hai đứa im thin thít chẳng dám hỏi. Bữa tối trôi qua nặng nề sau đó mọi người ai về phòng nấy, chỉ còn anh Minh là anh cả trong nhà bảo hai đứa ngồi lại. Hai anh em nhìn nhau trong bụng cực run, vì đã biết tính anh, ít nói nhưng rất nghiêm. Sau khi tra hỏi mấy câu hai đứa đành khai thật hết và giao nộp vũ khí, té ra là năm cái chứ không phải bốn. Này nhé, hai súng cao su mi-ni dùng bắn đạn thép chữ U, hai súng cao su bắn đạn sỏi viên nhỏ, Sơn còn thửa thêm một súng bắn hạt trám nữa, vũ khí này đang giai đoạn hoàn thiện! Cứ tưởng anh Minh tịch thu rồi hủy, hóa ra không, anh lấy chun buộc thành một túm rồi quẳng lên nóc tủ ly ngay trong phòng ăn. Vậy mà chúng cứ nằm ở đó mãi chẳng đứa nào dám ho he!
 
Một ngày nọ, Mợ tôi mang về mấy quyển sách mới toanh còn thơm mùi mực in, đó là sách cho thiếu nhi, cuốn "Cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karic và Valia". Khi cả nhà đang tíu tít với "sách của Me sách của Me" thì Mợ tôi giơ cao quyển sách, chỉ vào dòng chữ nhỏ phần ghi người dịch, nói: "Hai người dịch đấy nha, không phải mình Me đâu nha!". Lúc đó cả nhà mới để ý và reo lên vui sướng: dòng ấy ghi "Phan Thị Miến và Thiệu Huy - Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp". Cả nhà vui sướng ríu rít là vì đồng dịch giả Thiệu Huy ngày đó mới có ba tuổi, và rất hay khóc nhè làm nũng. Huy là út trong nhà, sát ngay sau Quang. Hồi đó tôi không để ý lắm đến việc Huy còn bé mà đã được in tên lên sách, ấn tượng với tôi nhất chính là mấy chữ "Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp". Tôi tự hào về Mợ tôi! Và ngày ấy cứ tưởng chỉ duy nhất có Mợ tôi là biết tiếng Pháp! Quyển sách Mợ dịch từ tiếng Pháp, quyển "Cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karic và Valia" là quyển sách mà tôi thích nhất, nó ám ảnh suốt quãng đời còn lại của tôi, ngay cả khi đã thuộc biên chế của Hội người cao tuổi!
 
Điều lạ lùng là cách đây không lâu tôi lạc vào một trang web giới thiệu sách cho lứa tuổi thiếu nhi, thấy trong danh mục có quyển "Cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karic và Valia", không hề có ghi tên người dịch, mặc dù các sách khác đều có ghi. Trong danh mục của một trang web khác lại còn xuất hiện một quyển nhái, đó là quyển "Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Karic và Valia". Trong tên sách họ cố tình thêm chữ "Những", nhưng lại giả vờ quên ghi tên người dịch. Tôi hỏi nhà thơ và là dịch giả Thúy Toàn, ông nói "Có thể khiếu nại được". Tôi hỏi nhà văn Nguyễn Quang Lập, anh nói "Khiếu nại bản quyền ở nước mình là chuyện đơm đó ngọn tre, hehe". Thế mà còn cười được thì đau thật!
 
Dịch sách là niềm say mê của Mợ. Ngay từ những ngày còn bé tôi đã thấy đêm nào Mợ tôi cũng say sưa với những trang sách nước ngoài đã được tháo rời ra từng xếp nhỏ một, gọi là "tay sách". Mãi sau này tôi mới hiểu là Mợ tháo rời ra như thế để dễ cho vào túi xách mang đi mang lại giữa cơ quan và về nhà. Đêm về nằm đọc cầm tay sách cũng nhẹ nhàng và thuận tiện cho việc vừa dịch vừa phải ghi chép. Về sau, khi đã rời Viện Nghiên cứu Giáo dục về nghỉ hưu, Mợ tôi vẫn cộng tác với các đồng nghiệp như bác Phùng Văn Tửu, Đỗ Đức Hiểu và Hoàng Thiếu Sơn tiếp tục công việc dịch thuật và giới thiệu sách văn học nước ngoài. Một số tên sách Mợ tôi đã dịch và tham gia dịch mà tôi còn nhớ như Iliat và Ôđixê của Hômerơ, Kịch tuyển chọn của Victo Huygô, Sách dành cho các bậc cha mẹ của Macarenko, và một vài quyển khác nữa.
 
Tôi không bao giờ quên cái ngày in xong quyển Iliat và Ôđixê của Hômerơ. Đó là một quyển sách được biên tập kỹ càng và dày dặn, bởi nó được tập hợp từ hai quyển Mợ tôi dịch, mà trước đây in thành hai quyển riêng biệt. Còn nhớ đó là vào năm 1997, khi Cậu Nho đã đi xa, Mợ tôi trải qua những ngày cô đơn và trống trải, mặc dù các con luôn bên cạnh. Thời kỳ đó tôi ghé về với Mợ thường xuyên hơn. Lần ấy Mợ không đợi tôi ghé về, Mợ bảo chị Dung, chị dâu tôi gọi nhắn tôi vào 53B Hàng Chuối. Tôi cứ tưởng có việc gì sai bảo, hóa ra là để Mợ cho tôi quyển sách mới in với lời đề tặng chan chứa yêu thương. Cách đây mấy năm cô giáo Quỳnh Nga ra Hà Nội, trong một lần đến thăm cô ở Bà Triệu, biết là cô thân thiết với Mợ nên tôi mang theo quyển sách để khoe. Tôi nói: "Để cô biết rằng em có thêm một người mẹ nữa". Cô ngỏ ý muốn giữ quyển sách một thời gian, và tôi đã đồng ý.
 
Hết phần Một.

Thứ Sáu, 18 tháng 2, 2011

QUÊ NGOẠI

NHỚ QUÊ NGOẠI

Nhân đọc bài "RÉT NÀY LẠI NHỚ QUÊ XƯA" của Văn Thành Nhân

Trời rét nhớ nhà, ngày tết nhớ quê, đó là lẽ thường tình. Nhưng ngồi ngay giữa lòng quê hương mà nhớ quê đau đáu đến thắt cả ruột gan thì ngoài VTN (Văn Thành Nhân) ra, tôi chưa biết đến người thứ hai!

Nhớ quê, thường là càng xa càng nhớ. Nếu cứ lấy bán kính rồi khoanh một đường tròn thì quê tôi nằm trên cái đường tròn có bán kính năm trăm ki-lô-mêch. Như thế cũng gọi là xa xứ được rồi, nhưng xa sao bằng những người có quê tận Nam Bộ, rồi Kiên Giang, rồi Cà Mau. Như thằng con rể tôi đây, thì bán kính đó phải tính bằng con số ngàn, rồi nhớ quá nói vống lên là xa quê hàng ngàn cây số, cũng không thấy ngoa. Nhưng mà thương lắm!

Kể lể đo đạc tính toán chi li thế để mà cảm cái nỗi niềm của người nhớ quê khi đang nằm ngay giữa rốn quê hương. Ta thử lấy Ô Quan Chưởng (nơi ở của VTN) làm tâm điểm rồi quay một đường tròn có bán kính khoảng mười (10) hoặc cứ xênh xang hẳn mười một (11) ki-lô-mêch đi, thì toàn bộ danh sách quê Nội quê Ngoại, rồi cận Nội cận Ngoại của VTN đều nằm lọt thỏm trong cái hình tròn đó. Vậy mà lúc nào cũng đau đáu một nỗi nhớ quê. Ngày rét cái nhớ nhân lên gấp bội, chả biết đến ba ngày Tết rồi sẽ thế nào. Có lẽ Hội Bloggers QC-HN phải cử người canh chừng ông này mới được!

Nhưng rồi đọc lại bài tâm sự của VTN kỹ hơn một chút, ta bỗng nhận ra rằng, nếu ta mất quê như VTN thì ta sẽ thế nào? Cũng bởi cho đến lúc đọc được những dòng tâm tư của VTN, tôi chưa hề có khái niệm "mất quê", như thế cũng coi như mình là người quá hạnh phúc, nhưng mà cũng vô tư quá đi!

Mất quê. Tôi đọc và bỗng thấy lòng mình lắng lại rồi đắng chát. Đã có ai đi qua quê Nội, rồi chỉ thấy còn mỗi ngôi Chùa là sót lại, rồi săm soi để ý đến mức thuộc nằm lòng cả đến những cái hốc nhỏ cũ kỹ của một ngôi tháp mộ trên mảnh sân chùa xưa?
Người đó chỉ có thể là Văn Thành Nhân! 

Nghe VTN tâm sự nỗi niềm tôi bỗng nhận ra mình là người hạnh phúc, khi nói về quê cha đất tổ. Vậy hạnh phúc ở điểm nào?

Này nhé, bên Nội bên Ngoại tôi là đầu làng cuối xã. Từ quê Nội cứ dọc theo dòng Kiến Giang thì khoảng hơn nửa tiếng chèo đò là đến. Nói thế cho nó xa xôi thêm một chút, chứ mà đi xe đạp hay xe máy như bây giờ thì xe chưa kịp nóng máy đã thấy nhà Ngoại rồi. Ngoa một tí cho vui chứ trên thực tế nó cũng nhanh thật, đến 4 cây số mà không có cái ngã tư nào, không có cái đèn đỏ nào, cũng không phải tránh cái ô-tô nào thì các bác bảo tay lái lụa như tôi đây, lại phóng bạt mạng như là đang trên đường Láng Hòa Lạc, thì mất bi nhiêu!

Thời nhỏ, tôi gắn bó với nhà Ngoại lắm lắm. Tôi có cái thiệt thòi là ngay từ bé đã không được sống với Ông Bà ngoại một tí xíu nào. Già rồi, đôi lúc nghĩ lại vẫn thấy tủi thân, lạ thế. Có lẽ vì khi mình có cháu ngoại , rồi thấy nó hạnh phúc như thế nào trong vòng tay ông bà ngoại, rồi mới liên hệ đến bản thân, chứ trước đây không có thế. Bù lại, nhờ có mẹ, anh em tôi gắn bó với ngôi nhà của Ngoại hơn bất cứ một đứa trẻ nào ở quê!
Cổng nhà Ngoại tôi (Ảnh Trương Duy Nhất)

Ông ngoại tôi hy sinh trong nhà lao Huế khi tôi còn chưa chào đời. Còn Bà ngoại lại ở Việt Bắc. Vì vậy mẹ tôi thường đưa các con về nhà Ngoại để chăm sóc ngôi nhà bỏ không trong hàng chục năm trời, vì thế mà trở nên gắn bó. Đến khi chị Cúc tôi bị tên lửa Mỹ phóng vào thuyền bị thương nặng, cũng được đưa lên nằm tạm để sơ cứu ở bến sông nhà Ngoại, rồi từ đó mới chở lên bệnh viện huyện. Vì vậy cứ mỗi lần về Ngoại là thế nào tôi cũng xuống bến sông ngồi một lúc lâu, khi nào mẹ gọi lên ăn cơm mới chịu lên.

Ông Bà ngoại để lại cho mẹ tôi ba sào ruộng mật cách nhà có một tầm bắn súng cao su, vì thế kể từ lúc gieo mạ cho đến lúc cấy cây lúa xuống đồng, rồi đến ngày mùa nào là gặt là đập là phơi nhất nhất đều ở nhà Ngoại, mãi sau này đưa ruộng vào HTX mới thôi. 
Sân nhà Ngoại tôi (Ảnh Trương Duy Nhất)

Đọc VTN rồi ngẫm đến mình thời nhỏ, trẻ con có gắn bó với bên ngoại hay không phần nhiều cũng nhờ người mẹ. Trừ những tháng năm tôi sống ở Hà nội (cũng lại ở với bên ngoại!) còn nếu đã ở quê thì mẹ tôi luôn có việc để các con phải về bên Ngoại. Đứa lớn thì tự đi, còn bé thì lõn tõn chạy theo mẹ băng qua cánh đồng là đến nhà Ngoại. Nhờ thế lũ trẻ chúng tôi có thêm nhiều kiến thức về cây lúa, về con mương, về cánh bèo, về khoảnh ruộng và về các mùa vụ. Lớn lên lũ chúng tôi biết ơn mẹ rất nhiều vì những điều tưởng là bình thường đó.

Tại sao ta nói nhiều về quê ngoại, về bên ngoại? Không phải vì VTN chỉ còn quê Ngoại rồi khiến ta nhớ thêm, khiến ta nói nhiều hơn, hay bởi vì nhiều đứa trẻ trong chúng ta gắn bó với quê ngoại hơn. Mà bởi vì quê Nội hay bên Nội, theo tập tục người Việt ta, thì dù không nói đến nửa lời, không đề cập nửa câu, nó cũng đã là máu thịt ta rồi, đương nhiên là ta rồi, vậy thì điều quan tâm còn lại phải là quê Ngoại vậy! Không phải bỗng dưng mà cụ Lành (Tố Hữu) lại thốt lên "Huế ơi quê ngoại của ta ơi!". Vậy thì quê nội của cụ là ở đâu vậy ta? Ai đó chưa biết rồi sẽ biết, nhưng quê ngoại thì nhất định phải công bố cho cả Thế giới hay!

Trong bữa cơm gia đình một chiều đông lạnh giá, tôi mang điều trăn trở của bác VTN kể cho cả nhà như bổ sung vào mâm cơm một món đặc sản 'phi vật thể' ấm nồng. Bọn nhỏ chăm chú lắng nghe nhưng không đứa nào có ý kiến gì. Chỉ có Thủ trưởng trực tiếp của tôi, sau khi bẻ đôi nhường cho tôi một nửa miếng cơm cháy giòn thơm, nói thủng thẳng: "Bác Nhân quá đắm đuối với quê nên lúc nào cũng nỗi niềm rồi tưởng mất quê, chứ quê bác í là Hà Nội, là đất Tràng An rồi chứ mất đi đâu. Có mất là mất cái nhà thờ, cái mảnh đất hương hỏa của ông bà để lại thôi".
Ngẫm lại thấy đúng quá! 

Chịu khó suy ngẫm thêm chút nữa thì thấy quan điểm đó không những đúng mà là quá đúng! Bởi vì đó là ý kiến phát ra từ người không chỉ là Thủ trưởng trực tiếp của tôi, mà còn trực tiếp sinh ra những đứa con thiên thần của tôi nữa!

Thứ Tư, 16 tháng 2, 2011

NẾP NHÀ THÂN THƯƠNG CỦA NGOẠI

NẾP NHÀ THÂN THƯƠNG CỦA NGOẠI

(Post lại để lưu)
Sáng nay (30-10) vào nhà Thế Thịnh mới biết tin Ông Già của Thịnh vừa mất. Xin gửi tới Thịnh cùng gia đình lời chia buồn sâu sắc! 
Được biết trước đó Thịnh cùng đoàn cứu trợ đã về Lộc Thủy, quê Nội của tôi, và có về An Xá ghé thăm nhà Ngoại tôi. Xin Thịnh cho tôi được mang một số ảnh Thịnh chụp mảnh vườn cùng ngôi nhà của Ông Bà ngoại tôi về đây.
Cám ơn Thịnh babel rất nhiều!

Nếp nhà thân thương của Ông Bà ngoại tôi (Ảnh Trương Duy Nhất)

23102010150.jpg
Nhà Ngoại sau trận lụt lịch sử vừa qua (Ảnh Thế Thịnh)

23102010151.jpg
Khu vườn rau sau lũ lụt

23102010153.jpg
Từ sân đến vườn (kéo dài đến nhà thờ chi Võ Nguyên) phù sa dày đã khô lại

23102010158.jpg
Chỗ để nông cụ sản xuất sau hồi nhà phù sa vẫn bám đầy

23102010159.jpg
Bộ bàn ghế tiếp khách đã được lau chùi nhưng vẫn còn dấu vết của lũ

23102010149.jpg
Cây Khế "cổ thụ" còn gọi là Cụ Khế.

Lần nữa, cám ơn Nguyễn Thế Thịnh rất nhiều!
(Bài chuyển từ 360plus sang để lưu trữ)

Thứ Ba, 18 tháng 1, 2011

ANH TRỖI

Anh Trỗi ơi!

Sáng mai 16 tháng 10, tại Hội trường Cung Văn Hóa Hữu Nghị sẽ diễn ra cuộc gặp mặt cựu học sinh Trường Văn hóa QĐ Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi (Trường Trỗi) nhân 45 năm ngày truyền thống của trường (15-10-1965 - 15-10-2010), vậy mà em chưa viết thêm được bài nào về Anh.

Cho phép em đăng lại bài viết trước đây, Anh Trỗi nhé!


ANH TRỖI ĐÃ TỪNG HY SINH Ở LỆ THỦY - QUẢNG BÌNH?

Nguyễn Tấn Định

Bài viết nhân kỷ niệm 45 năm ngày Anh Trỗi hy sinh

Tôi có rất nhiều bạn là cựu học sinh Trường Trỗi, các anh chị tôi đều đã qua Trường Trỗi, thậm chí tôi có ông anh rể cũng là dân Trỗi nốt, đó là Hữu Thành. Thế thì còn chần chừ gì nữa mà không tự nhận mình là dân Trỗi! Rồi không biết từ khi nào, tôi cứ nghĩ mình là dân Trỗi thật. Và cũng thật may mắn là mấy thằng bạn thân chẳng đứa nào phản đối cả, lại còn coi đó là điều hiển nhiên mới lạ chứ. Hôm rồi Chu Kỳ Minh còn hùng hồn tuyên bố với nhóm bạn "Thằng này là Trỗi khóa Chín!". Ừ, Trỗi Khóa Chín, Trỗi Khóa Chín, sao lâu nay mình không nhớ ra là mình đã học ở Trỗi Khóa Chín nhỉ! Dân Trỗi - đó là niềm tự hào đáng yêu và niềm vinh dự lớn lao của tôi!

Vậy mà, tôi hỏi mấy thằng bạn Trỗi về cái chết của Anh, nhiều đứa cũng tơ lơ mơ lắm, chẳng nhớ gì nhiều. Đặc biệt khi tôi hỏi "Mày có biết Anh Trỗi đã từng bị xử bắn ở Quảng Bình quê tao không?" thì nhiều đứa ngẩn tò te, có đứa nhìn tôi chằm chằm rồi bảo "Điên! Đi chỗ khác chơi, mày!". Thật tệ! Vậy mà chuyện lại có thật đấy. Chẳng những thế, nếu tôi còn để lộ thông tin là Anh Trôi vẫn còn, đang sinh sống ở Thành phố HCM, thỉnh thoảng đi công tác tôi vẫn ghé thăm, thì bọn bạn chắc chắn cho tôi là điên thật, rồi "cưỡng chế" đi Trâu Quỳ cũng chưa biết chừng!

Biết vậy nhưng tôi vẫn kể.
Tôi kể chuyện này, tuy gọi là chuyện trẻ con, nhưng để chúng ta nhớ lại một thời, cái chết của Anh đã tác động đến lớp trẻ, đặc biệt là học sinh sinh viên miền Bắc, sâu sắc đến như thế nào. Tấm gương hy sinh đẫm chất anh hùng ca của Anh đã để lại ấn tượng không bao giờ quên cho mọi lứa tuổi học sinh chúng tôi, đã trở thành hành trang theo chúng tôi vào đời và ra trận, như thế nào.

Đầu đuôi là như thế này.
Tôi nhớ hồi đó tôi học cấp ba, ở trọ luôn nơi trường sơ tán. Một hôm, mấy đứa con trai lớp tôi bày ra làm báo tường, tên báo là SỐNG NHƯ ANH, tôi được phân công vẽ chân dung Anh Trỗi. Tôi có cái vinh dự đó không phải vì tôi giỏi vẽ chân dung, mà là vì tôi có những năm cái hoa tay, nhiều hơn thằng nhiều hoa tay nhất trong lớp đúng một cái. Thực ra lúc đó tên của Anh là Nguyễn Văn Trôi chứ không phải là Nguyễn Văn Trỗi như sau này chúng ta vẫn thường gọi. Chính xác nguyên nhân do đâu tôi không được rõ, nhưng nghe đâu tại lỗi kỹ thuật khi truyền điện tín, không biết có đúng thế không.




Tôi nhớ là lúc tôi đang vẽ Anh Trôi thì nghe tiếng bọn trẻ con cãi nhau chí chóe phía sau lưng. Ngoảnh lại nhìn thì, chèng đéc ơi, trẻ con đâu ra mà lắm thế này, lại còn cãi nhau loạn xì ngầu cả lên. Thằng nhỏ con bà chủ nhà nói "Không giống Anh Trôi". Tôi thấy nóng mặt, đúng là oắt con, thằng này dám làm mất uy tín họa sĩ! Tôi hỏi nó "Sao biết không giống? Mày gặp anh Trôi lúc nào mà biết không giống?". Nó bảo "Em gặp rồi, không giống!". Thế mới điên! Không ngờ thằng ở trần con nhà bà hàng xóm lại còn cố cãi giúp "Không giống. Tóc anh ấy ngắn và tai thì nhỏ hơn. Anh ấy bị bắn ba phát mới chết, mà không thấy có máu chảy ra chi hết". Tôi giật cả mình, hỏi lại "Bắn ở đâu?". Nó bảo bắn ở sân vận động, cạnh trường cấp một. Tôi hỏi dồn "Ai bắn?", nó tái mặt tưởng tôi trấn áp nó, miệng lúng búng "Mỹ Diệm, Mỹ Diệm bắn mà". Tôi láng máng hiểu được chuyện gì đã xảy ra, nhưng không thể cười thành tiếng được, bởi chúng nó nói với giọng rất nghiêm túc. Tôi bèn hỏi tiếp "Thế quân ta đâu cả?". Thằng con bà chủ nhà nhanh nhảu "Quân ta hô đả đảo Mỹ Diệm, đả đảo Mỹ Diệm". Thằng nhỏ hàng xóm cãi "Không phải Mỹ Diệm mà là đả đảo đế quốc Mỹ". Con bé ngồi xổm bên cạnh thêm "Cả tay sai nữa, bè lũ tay sai"! Một nhóc mặc may-ô quần đùi nãy giờ đứng im nay cũng chêm vào "Anh Trôi hô Hồ Chí Minh muôn năm đến hai lần". Thằng nhỏ hàng xóm cãi "Ba lần!". Thằng nhóc may-ô cãi lại "Hô hai lần thì anh ngoẻo cổ xuống luôn". Một con bé khác đứng đằng sau kể "Lúc đó chị Hương tau khóc ngất". Thằng nhỏ con bà chủ nhà tiếp lời "Mạ tau cũng khóc, nói Mỹ Diệm ác thiệt!". Một thằng nhỏ đầu trọc lóc mặc quần thủng đít khẳng định "Anh Trôi chưa chết mô, mấy ngày sau tau còn thấy anh ấy đi tắm sông với mấy người nữa, ở bến sông cạnh nhà tau, tắm với một thằng Mỹ Diệm"...

Như vậy câu chuyện qua lời kể của bọn nhỏ là có thật. Bây giờ chỉ còn phải tìm hiểu xác minh xem nó đã xảy ra lúc nào và xảy ra như thế nào nữa thôi. Là cảnh trong một vở của đoàn kịch nói hay trong biểu diễn văn nghệ của địa phương? Tôi liền tìm gặp chị Quyên. Chị Quyên này không phải chị Quyên vợ anh Trôi, dĩ nhiên là thế rồi. Chị Quyên này là chị họ của tôi, hơn tôi hai tuổi nhưng học cùng lớp. Nghe tôi hỏi, chị cười ngặt nghẽo rồi kể lại cho tôi đầu đuôi câu chuyện. Đó là vào cuối năm học trước, trong hội diễn văn nghệ của toàn trường, có vở tiểu phẩm "Hãy nhớ lấy lời tôi!" của lớp 8A, rất hay và rất xúc động. Tôi hỏi chị ai đóng vai anh Trôi, chị bảo thầy Xuyên chơ ai, thầy nói giọng Nam Bộ nên rất giống anh Trôi. Tôi hỏi thế mặt có giống không, chị bảo không giống, anh Trôi đẹp trai hơn, với lại mái tóc anh Trôi cũng đẹp hơn. Tôi bảo, thế nên chị Quyên mới yêu và lấy anh Trôi chớ! Chị quay mặt cười ngượng nghịu, nhưng mắt thì rưng rưng. Tôi đoán, chắc chị nghĩ và thương chị Quyên của anh Trôi nhiều lắm! Chị còn kể thêm, trong vở diễn còn có vai nữ ký giả Sài Gòn do Lâm Thị Mỹ Dạ đóng, rất điệu đàng và duyên dáng, một tay cầm cuốn sổ một tay cầm míc-cờ-rô, cổ đeo toòng teng đến hai máy ảnh, thỉnh thoảng lại đưa lên chụp chụp, rất điệu nghệ. Tôi nghe kể cứ tức anh ách. Ký giả Sài Gòn tay sai thì không thể xinh như Lâm Thị Mỹ Dạ được, thật đóng phí cả đi! Chị Quyên quay sang tôi, hỏi: "Sao kịch hay thế mà em không coi là răng?". Tôi nói với chị, lúc đó tôi còn đang học ở trường Lê Ngọc Hân Hà Nội, nên không xem được kịch. Chị Quyên nói "Tiếc hè!". Ừ, thật tiếc đứt ruột!


Bây giờ thì chuyện anh Trôi bị xử bắn ở sân vận động thuộc một làng của quê tôi là có thật rồi nhé, ít nhất là qua lời kể hồn nhiên và đầy cảm xúc của mấy đứa trẻ quê tôi! Những nhân chứng là người lớn đến nay vẫn còn sống cả, có người lại còn là nhân vật trong cuộc nữa chứ. Này nhé, chị Quyên, chị họ của tôi công tác ở Đại học An ninh nay đã nghỉ hưu ở quận Thanh Xuân Hà nội. Nữ ký giả Sài Gòn Lâm Thị Mỹ Dạ là nhà thơ nữ nổi tiếng đang sống và làm việc ở Huế. Còn người đóng Anh Trôi, người anh hùng của chúng ta, là thầy Nguyễn Vĩnh Xuyên, thầy dạy Địa lý của trường. Sau bảy lăm thầy trở về Sài Gòn tiếp tục dạy học. Vợ thầy không phải tên Quyên mà tên là Mượt, "Mượt của ta!" - như thầy vẫn thường tự hào khoe với mọi người! Mỗi lần có dịp đi công tác vào Thành phố HCM là tôi đều ghé thăm thầy. Lần nào Thầy cũng mừng như người thân lâu ngày gặp lại. Chị Mượt vợ thầy, vẫn đảm đang và chu đáo với em út như xưa nay vẫn thế. Ngắm Chị từ đằng xa, trông dáng Chị vẫn gọn gàng thon thả, toát lên vẻ uy phong của một nữ xã đội trưởng lẫy lừng một thời của một vùng quê thuộc Thanh Trì ngoại thành Hà nội!

Chuyện có thật mà, Anh Trôi cũng có biết mà!

Hà nội, Đêm 11 - 10 - 2009

NTĐ   

SẺ CHIA


KHÔNG THỂ NÀO QUÊN

Những ngày cuối Thu, đầu Đông.
Những buổi chiều se lạnh, tôi thích khoác chiếc áo bông quân phục, ngồi im lặng trên chiếc ghế đá phía bên phải lối cửa ra vào của A2 Viện Tim Mạch, Bệnh viện TW Quân đội 108. Giờ này là tầm 'tan ca', nghĩa là cuối giờ làm buổi chiều, các bác sĩ và nhân viên ra về, một số khác đến nhận ca trực đêm.

Tôi ngồi ở đây, vào đúng giờ này, bởi tôi thèm nhìn lại những khuôn mặt thân thuộc. Có thể họ không nhận ra tôi, nhưng tôi biết rất rõ về họ. Nhìn thấy họ tôi thấy nhớ Ba tôi nhiều hơn. Và cũng nhờ nhìn thấy họ, nỗi nhớ về người cha thân yêu trong tôi cũng được khuây khỏa phần nào. Họ là những bác sĩ, y tá, hộ lý đã trực tiếp và gián tiếp chăm sóc, điều trị cho Ba tôi.

Ba tôi bị suy tim lão khoa, cấp cứu tại đây bốn lần trong năm, và ra đi trong lần cấp cứu cuối cùng, trong ngày cuối cùng của tháng Mười năm ngoái. Dịp này là giỗ đầu Ba tôi. Nếu còn, đến Tết dương lịch này Ba tôi tròn 96 tuổi. Ba tôi ra đi trong thanh thản, bởi ông cảm nhận được tình thương yêu và sự chăm sóc chu đáo, tận tình không chỉ của con cháu, người thân trong gia đình, mà cả của đội ngũ bác sĩ, cán bộ nhân viên, y tá hộ lý của Viện Tim Mạch này, và của cả Quân Y Viện 108 nói chung. Đó là điều mà tôi cũng như mọi thành viên trong gia đình luôn khắc ghi và biết ơn sâu sắc!

Không thể nào quên được bác sĩ Biên lãnh đạo Viện, bác sĩ Sơn lãnh đạo Khoa, các bác sĩ điều trị như anh Thành, anh Chiến, anh Hưng, rồi cô Thu Hành chính, rồi các cháu y tá hộ lý, rồi bác sĩ Hòa ở Khoa Cấp cứu, rồi những ai nữa, những ai nữa mà tôi không kịp nhớ tên trong những ngày căng thẳng và vất vả đó. Tôi muốn nói lời biết ơn đến tất cả, tất cả...

Cũng chính ở đây, hàng ngày hàng giờ tôi cảm nhận được những gì mà chúng ta thường nói về y đức, về tình thương giữa người với người, về sứ mệnh cao cả của người thầy thuốc, về thực tế sinh động của lời thề Hippocrates.

Tôi luôn tin rằng, ở Thế Giới Bên Kia, Ba Mẹ tôi luôn nhớ về những người thầy thuốc nơi đây, biết ơn họ, và phù hộ cho họ có được sức khỏe và cuộc sống an lành để ngày ngày cứu giúp người bệnh!

Không thể nào quên!
Hà Nội, 10-11-2010
NTĐ